Mục lục

Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian bảo dưỡng đến đặc tính kháng nứt của bê tông asphalt tái chế nguội sử dụng nhũ tương và xi măng

Trang: 242-254 Nguyễn Ngọc Lân, Nguyễn Thị Mi Trà, Nguyễn Quang Phúc
Tóm tắt

Hỗn hợp asphalt tái chế nguội sử dụng nhũ tương asphalt kết hợp với xi măng đã được cải thiện đáng kể về cường độ và tính ổn định nước. Với hỗn hợp asphalt tái chế sử dụng thêm phụ gia xi măng, thời gian hình thành và phát triển cường độ phụ thuộc nhiều vào điều kiện bảo dưỡng và có thể ảnh hưởng đến đặc tính nứt của hỗn hợp. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm đánh giá đặc tính kháng nứt của hỗn hợp tái chế nguội được bảo dưỡng ở 25oC, 40oC và 60oC. Tương ứng với mỗi nhiệt độ, thời gian bảo dưỡng hỗn hợp là 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày và 28 ngày. Kết quả cho thấy rằng, khi tăng nhiệt độ và thời gian bảo dưỡng lên thì cường độ chịu kéo tăng lên. Ở các ngày tuổi bảo dưỡng, khi tăng nhiệt độ bảo dưỡng từ 25oC lên 40oC và 60oC thì năng lượng phá hủy (Gf) và chỉ số kháng nứt CTIndex tăng lên. Ngoài ra, ở mỗi nhiệt độ bảo dưỡng, khi tăng thời gian bảo dưỡng từ 1 ngày lên 3 ngày, 7 ngày và 28 ngày thì chỉ số CTIndex giảm xuống. Cường độ chị kéo, Gf và chỉ số CTIndex thay đổi không đáng kể đối với hỗn hợp được bảo dưỡng 40oC và 60oC ở 28 ngày tuổi.

Nghiên cứu chế tạo bê tông cốt liệu tái chế sử dụng cốt sợi xơ dừa làm mặt đường

Trang: 255-267 Lê Thu Trang, Nguyễn Thanh Sang, Hoàng Tiên Niên, Phạm Đinh Huy Hoàng, Thái Minh Quân
Tóm tắt

Bê tông sử dụng cốt liệu tái chế thay thế cốt liệu tự nhiên gần đây đã thu hút nhiều nghiên cứu đạt được các kết quả khả quan và đóng góp vào việc bảo vệ môi trường khi mà vấn đề cạn kiệt tài nguyên ngày càng cấp bách. Bài báo này trình bày về bê tông cốt liệu tái chế sử dụng sợi xơ dừa và ảnh hưởng của hàm lượng sợi đến cường độ chịu nén, cường độ chịu chịu uốn, tính công tác và độ hút nước. Các cấp phối sử dụng trong nghiên cứu với hàm lượng xơ dừa là 0,4%, 0,7% và 1% theo khối lượng. Cường độ chịu nén và chịu uốn được thí nghiệm ở các tuổi 7, 28 và 56 ngày và được so sánh với loại bê tông đối chứng không sử dụng sợi. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng hàm lượng sợi xơ dừa làm tăng đáng kể đến đặc tính kéo của bê tông cốt liệu tái chế và với các cấp phối sử dụng, bê tông đạt cường độ trung bình 35MPa có thể sử dụng cho bê tông mặt đường, bê tông làm gạch lát vỉa hè và các cấu kiện dùng trong xây dựng đường ôtô.

Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng xi măng và loại đất đến một số tính chất cơ lý của vật liệu đất nện

Trang: 268-282 Nguyễn Tiến Dũng
Tóm tắt

Đất nén không nung nói chung và đất nện nói riêng là một loại vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường và đang được đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tại nhiều nước trên thế giới. Bài báo này trình bày một số đặc tính cơ lý của vật liệu đất nện gia cố xi măng bao gồm: cường độ chịu nén, cường độ ép chẻ và độ hút nước. Hai loại đất có thành phần hạt, thành phần khoáng vật khác nhau đã được sử dụng. Đất nện được gia cố bằng xi măng poóc lăng hỗn hợp PCB30 với hàm lượng dao động trong khoảng 4-8% (theo khối lượng của đất). Thành phần vật liệu của đất nện được thiết kế theo nguyên lý độ ẩm tối ưu và khối lượng thể tích khô lớn nhất. Các kết quả thí nghiệm cho thấy khi tăng hàm lượng xi măng thì các tính năng cơ học của đất nện được cải thiện đáng kể và độ hút nước giảm xuống. Sự khác nhau về thành phần hạt và thành phần khoáng vật của 2 loại đất là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến các đặc tính cơ lý của 2 loại đất nện này. Các kết quả của nghiên cứu này góp phần làm giàu thêm cơ sở khoa học cho việc sử dụng loại vật liệu này trong các công trình xây dựng tại Việt Nam

Nghiên cứu ứng dụng đo kép trong đo cao hình học từ giữa phục vụ thành lập lưới độ cao

Trang: 283-291 Trần Đắc Sử, Trần Thị Thảo
Tóm tắt

Đo cao hình học từ giữa là phương pháp đo cao cơ bản trong trắc địa, được quy định chi tiết, chặt chẽ trong các tiêu chuẩn, quy phạm khi ứng dụng thành lập lưới độ cao. Tuy nhiên, khi ứng dụng với điều kiện địa hình phức tạp, không thể đảm bảo điều kiện chênh lệch tia ngắm từ máy đến mia, phương pháp này gặp rất nhiều khó khăn khi triển khai thực hiện theo quy phạm. Nội dung của bài báo khoa học này là phân tích đánh giá mức độ ảnh hưởng đồng thời do độ cong quả đất, chiết quang đứng và trục ngắm không nằm ngang trong đo cao hình học từ giữa tại một trạm máy và trong đo kép với hai trạm máy. Trước tiên, số hiệu chỉnh do ảnh hưởng đồng thời của độ cong quả đất, chiết quang đứng và trục ngắm không nằm ngang được phân tích bằng cơ sở toán học để định lượng độ lớn dựa trên mối tương quan với chênh lệch khoảng cách tia ngắm và tổng chiều dài tia ngắm trong một trạm máy. Từ đó, bài báo đề xuất phương án áp dụng phương pháp đo kép hợp lý trong đo cao hình học từ giữa để giảm thiểu số hiệu chỉnh do ảnh hưởng đồng thời độ cong quả đất, chiết quang đứng và trục ngắm không nằm ngang đảm bảo độ chính xác yêu cầu của lưới độ cao

Ứng dụng mạng nơron nhân tạo để xây dựng mô hình phân bố nhiệt trong mặt đường bê tông nhựa từ dữ liệu quan trắc thực tế và đề xuất áp dụng cho thí nghiệm xác định độ võng đàn hồi bằng cần Benkelman

Trang: 292-306 Trần Thị Thu Thảo, Nguyễn Hồng Hải, Nguyễn Quang Phúc
Tóm tắt

Việc dự đoán phân bố nhiệt độ trong mặt đường bê tông nhựa (BTN) có ý nghĩa rất lớn cho công tác xác định cường độ và tuổi thọ của mặt đường BTN trong điều kiện thực tế. Bài báo trình bày kết quả quan trắc nhiệt độ BTN từ mô hình thực nghiệm kết cấu mặt đường mềm có lớp bê tông nhựa dày 13cm. Nhiệt độ quan trắc được sử dụng để xây dựng mô hình dự đoán phân bố nhiệt độ BTN theo phương pháp mạng nơron nhân tạo (ANN). Sau đó dữ liệu nhiệt độ tại độ sâu 4cm của BTN được ước tính từ mô hình ANN sẽ được sử dụng để phát triển mô hình hồi quy dự đoán nhiệt độ BTN tại độ sâu 4cm, phục vụ cho thí nghiệm đo độ võng đàn hồi bằng cần Benkelman. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mô hình mạng nơron nhân tạo cho kết quả dự đoán phân bố nhiệt độ trong lớp BTN có độ chính xác rất cao với R2=0,996 và RMSE=0,582oC. Các mô hình hồi quy dự đoán nhiệt độ BTN tại độ sâu 4cm cũng cho kết quả rất khả quan, sai số RMSE giữa các mô hình hồi quy và phân tích ANN có giá trị từ 0,847 oC đến 1,367 oC tùy thuộc số lượng biến số đầu vào mà mô hình yêu cầu

Nghiên cứu thực nghiệm ứng xử của kết cấu tường bê tông đất có khoét lỗ dưới tác dụng của tải trọng trong mặt phẳng

Trang: 307-315 Bùi Thị Loan
Tóm tắt

Việc sử dụng bê tông đất làm kết cấu tường trong các tòa nhà đang thu hút sự quan tâm mới của các nước phát triển nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong xây dựng, do bê tông đất là một loại vật liệu dựa trên đất nên có nhiều lợi thế môi trường như ít độc hại, có chế độ nhiệt ẩm tốt, khả năng hấp phụ tốt các hợp chất dễ bay hơi, có khả năng « trao đổi » mạnh,… Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về ứng xử của kết cấu tường bê tông đất có khoét lỗ dưới tác dụng của tải trọng trong mặt phẳng. Kết cấu tường bê tông đất đúc toàn khối với kích thước 1,5m x2m x 0,2m (LxHxt), được khoét lỗ kích thước 1m x1m x 0,2m và kết hợp với lanh tô bê tông cốt thép phía trên lỗ khoét, được thí nghiệm dưới tác dụng của tải trọng thẳng đứng, tập trung ở đỉnh tường. Kết quả nghiên cứu đã phân tích được ứng xử tổng thể và dạng phá hủy của kết cấu tường này và cho thấy rằng với kết cấu tường bê tông đất có khoét lỗ này khi được kết hợp với lanh tô bê tông cốt thép sẽ giúp tăng tính dẻo cho kết cấu

Phân tích nhiệt trọng lượng của chất kết dính trong bê tông tự đầm được chế tạo trong điều kiện thời tiết nóng

Trang: 316-328 Lê Vĩnh An
Tóm tắt

Các nghiên cứu gần đây cho thấy cường độ của bê tông tự đầm ít bị ảnh hưởng bất lợi khi được chế tạo và bảo dưỡng trong điều kiện thời tiết nóng so với bê tông truyền thống. Sự khác nhau này có thể do sự khác biệt về thành phần chất kết dính được sử dụng trong hai loại bê tông. Bài báo trình bày nghiên cứu thực nghiệm thông qua phương pháp phân tích nhiệt trọng lượng (TGA, DTG) để đánh giá quá trình thủy hóa của chất kết dính trong bê tông tự đầm được chế tạo và bảo dưỡng trong điều kiện mô phỏng thời tiết nóng. Các mẫu chất kết dính tương ứng trong các mẫu bê tông tự đầm được thiết kế là sự kết hợp giữa xi măng Pooclăng với chất độn mịn bột đá vôi. Phụ gia siêu dẻo sử dụng là loại gốc polycarboxylate. Khác với kết quả nghiên cứu đối với bê tông đầm rung thông thường được thí nghiệm trong cùng điều kiện, các mẫu bê tông tự đầm trong nghiên cứu này cho thấy cường độ nén tăng lên không chỉ ở 1 ngày tuổi mà còn duy trì hoặc tăng lên ở 7 và 28 ngày tuổi. Sự tiến triển cường độ nén của các mẫu bê tông tự đầm đã được liên hệ với các kết quả phân tích nhiệt trọng lượng của các mẫu chất kết dính

Xây dựng mô hình tổng quát đánh giá độ tin cậy của hệ thống kỹ thuật phức hợp

Trang: 329-345 Nguyễn Đức Toàn, Đỗ Đức Tuấn
Tóm tắt

Một hệ thống kỹ thuật phức hợp được cấu thành từ các phần tử và các phân hệ. Trong quá trình hoạt động, các phần tử hoặc phân hệ có thể bị hư hỏng, dẫn đến các chỉ tiêu độ tin cậy của chúng bị suy giảm và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của hệ thống. Các phần tử hoặc phân hệ sau khi hư hỏng, nếu được phục hồi, thì độ tin cậy của hệ phụ thuộc vào thời gian làm việc giữa các lần hỏng và thời gian phục hồi của chúng. Một hệ thống như vậy được gọi là hệ các phần tử hoặc phân hệ liên kết nối tiếp có phục hồi. Để đánh giá được độ tin cậy của các hệ thống kỹ thuật phức hợp đã nêu, trước hết cần xây dựng được mô hình tổng quát mô tả hoạt động của hệ thống và mô hình đánh giá độ tin cậy của nó, bao gồm các mô hình trạng thái, các ma trận chuyển tiếp trạng thái và các hệ phương trình xác suất chuyển tiếp trạng thái của toàn hệ thống. Đây chính là nội dung của bài báo. Từ mô hình tổng quát, sẽ tiến hành áp dụng cho việc đánh giá độ tin cậy của các hệ thống kỹ thuật phức hợp cụ thể nào đó, chẳng hạn như hệ thống vận tải đường sắt quốc gia, hệ thống vận tải đường sắt đô thị, hoặc các phân hệ trong các hệ thống đó, như phân hệ đường sắt, cầu, hầm, phương tiện đầu máy, toa xe hay đoàn tàu metro, phân hệ thông tin, tín hiệu, phân hệ cung cấp điện, nhà ga v.v., tùy theo chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của các đối tượng đã nêu

Nghiên cứu hành vi lựa chọn bãi đỗ xe cho các thành phố của tỉnh Bình Dương

Trang: 346-360 Vũ Anh Tuấn, Hoàng Thùy Linh
Tóm tắt

Nhu cầu đỗ xe ở các đô thị Việt Nam rất lớn do giao thông phụ thuộc vào phương tiện cơ giới cá nhân. Việc quy hoạch bãi đỗ xe và thiết kế các dịch vụ đỗ xe cần xét đến yếu tố hành vi của người dùng để có thể cân bằng nguồn cung bãi đỗ với nhu cầu. Bài báo trình bày nghiên cứu về hành vi lựa chọn điểm đỗ xe công cộng ở khu vực trung tâm đô thị mới thông qua nghiên cứu trường hợp ba thành phố Thủ Dầu Một, Thuận An và Dĩ An của tỉnh Bình Dương. Nghiên cứu sử dụng phương pháp lựa chọn giả định và xây dựng mô hình lựa chọn rời rạc để đánh giá tác động của các yếu tố liên quan đến bãi đỗ xe lên hành vi lựa chọn điểm đỗ xe. Kết quả phân tích cho thấy mức phí đỗ xe, khoảng cách đi bộ tới bãi đỗ xe, thời gian và loại phương tiện đỗ có ảnh hưởng mạnh đến hành vi lựa chọn bãi đỗ. Một số yếu tố thiết kế dịch vụ đỗ xe cũng có có tác động mạnh tới hành vi lựa chọn loại bãi đỗ. Do vậy, việc quy hoạch vị trí các bãi đỗ xe cần đảm bảo hài hoà giữa yếu tố khoảng cách và mức phí đỗ xe. Các bãi đỗ xe cần được thiết kế đảm bảo cung cấp cho người dùng sự an ninh và các tiện ích phù hợp với loại phương tiện và thời gian đỗ xe

Phương pháp điều khiển hệ thống cung cấp điện cho tàu điện sử dụng mô hình Takagi-Sugeno mờ cải tiến

Trang: 361-373 Lê Hùng Lân, Nguyễn Văn Tiềm
Tóm tắt

Hệ thống điều khiển tiếp xúc giữa cần tiếp điện và dây điện lưới có vai trò quan trọng trong đảm bảo chất lượng cung cấp điện cho tàu đường sắt khi chuyển động. Nhiệm vụ của hệ thống điều khiển là đảm bảo lực tiếp xúc giữa cần và dây được ổn định trong điều kiện độ cứng của cần thay đổi khi trượt theo dây. Bài báo đưa ra phương pháp điều khiển mới dựa trên mô hình Takagi-Sugeno mờ cải tiến. Phương pháp đề ra có một số ưu điểm: thứ nhất, đánh giá được tính ổn định của hệ thống điều khiển; thứ hai, khả năng dập tắt dao động, bám theo giá trị đặt của lực tiếp xúc rất tốt và thứ ba, đảm bảo chất lượng điều khiển bền vững khi có sự thay đổi bất định trong các tham số hệ thống. Hiệu quả của phương pháp đã được đánh giá thông qua mô phỏng trên máy tính bằng phần mềm Matlab. Kết quả mô phỏng cho thấy tính ổn định của hệ thống được khẳng định, đồng thời hiệu quả điều khiển đã được nâng cao

Ảnh hưởng của nhiệt độ, tần số tải trọng tác dụng và dạng kết cấu đến ứng suất cắt trong lớp dính bám giữa lớp phủ và bản mặt cầu thép trực hướng

Trang: 374-385 Hoàng Thị Thanh Nhàn
Tóm tắt

Kết cấu bản mặt cầu thép trực hướng có lớp phủ bằng bê tông nhựa hiện đang được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, lớp phủ mặt cầu thường xuyên bị hư hỏng gây ảnh hưởng đến chất lượng khai thác của công trình. Một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng hư hỏng lớp phủ là do khả năng dính bám kém giữa bản mặt thép và lớp phủ bê tông nhựa. Bài báo này nhằm mục đích mô phỏng tính toán giá trị ứng suất cắt xuất hiện tại vị trí lớp dính bám dưới lớp phủ bê tông nhựa khi có xe chạy trên kết cấu bản mặt cầu. Hai dạng kết cấu đã được sử dụng trong mô phỏng tính toán bao gồm kết cấu có bản mặt thép trực hướng thông thường và kết cấu có bản mặt thép liên hợp với bê tông siêu tính năng UHPC. Các giá trị nhiệt độ tính toán, tần số tác dụng tải trọng, mô đun nền khác nhau đã được sử dụng nhằm đánh giá ảnh hưởng của các thông số này đến ứng suất cắt xuất hiện trong lớp dính bám. Các kết quả tính toán đã cho thấy dạng kết cấu và một số thông số có ảnh hưởng rõ rệt đến ứng suất cắt tại vị trí lớp dính bám